Tính thống nhất trong tác phẩm Ethics (Đạo đức học) của Aristotle có thể được trình bày như sau: Đó là ta không thể biết chắc về những điều đang diễn ra cũng như ta hoàn toàn mù mờ về những điều đã xảy ra trong quá khứ. Trong trường hợp tác giả đưa ra một lập luận với mong muốn độc giả lập luận trở lại, thì một độc giả có năng lực cần phải biết các quy tắc lập luận.
Nếu không, theo chúng tôi, không thể gọi tập hợp này là lịch sử của thời kỳ được nói đến. Đây cũng là thời kỳ có sự chuyển đổi từ việc đọc to sang đọc thầm. Aristotle gọi nguyên nhân hiểu này là một bước chuyển tại chỗ.
Khó đến mức có những triết gia, nhất là những người thuộc các thế hệ gần đây cho rằng không ai có thể trả lời chúng một cách thoả đáng được. Theo nghĩa này, ai cũng có thể sáng tác thơ trong một tâm trạng nhạy cảm, cô đơn ở mọi thời điểm. Bạn sẽ nhanh chóng liệt kê được những từ quan trọng mà Adam Smith sử dụng như: lao động, vốn, đất đai, lương, lợi nhuận, sự thuê mướn, hàng hoá, giá cả, trao đổi, tiền,… cũng như các từ chuyên môn mà Darwin dùng như: tính đa dạng, giống loài, sự chọn lọc, sinh tồn, thích nghi, lai, đấu tranh,…
Mỗi ngày có vô số sách báo viết về các chủ đề như sắc tộc, tội phạm, thực thi pháp luật, nghèo đói, giáo dục, phúc lợi xã hội, chiến tranh và hoà bình… Phần lớn các tác phẩm này đều mượn tư tưởng và ngôn ngữ từ các ngành khoa học xã hội. Thứ ba, ngay cả khi các nhân vật có hẳn một bài diễn thuyết, ví dụ như Settembrini nói về sự tiến bộ trong cuốn Magic Moutain (Ngọn núi kỳ diệu) của Thomas Mann, chúng ta cũng không thể chắc rằng đó cũng chính là quan điểm của tác giả. Họ không thể phân biệt những từ họ không hiểu một cách đầy đủ với những từ đã hiểu.
Bản thân các nhà phê bình cũng phải đọc tác phẩm nhiều lần và có cách hiểu của riêng họ trước khi đưa ra nhận xét, đánh giá. Đọc đến đoạn cuối, họ đã quên mất đoạn đầu và mất luôn cái nhìn tổng quan. Nghĩa của thuật ngữ lịch sử mà chúng tôi dùng dưới đây vừa hẹp lại vừa rộng hơn bất cứ nghĩa nào ở trên.
Chúng tôi đã đặt câu hỏi này với 25 độc giả, và hơn nửa trả lời là Nguồn gốc của loài người. Trong đó, hai loại được sử dụng nhiều nhất là từ điển và bách khoa toàn thư (sẽ được trình bày cụ thể trong phần tiếp theo). Một số từ khác cũng khá quan trọng như bằng, toàn thể, bộ phận nhưng chúng không phải là tên gọi của bất cứ thứ gì được Euclid định nghĩa.
Những người không thể diễn tả được họ thích điều gì ở cuốn tiểu thuyết có lẽ đã không đọc kỹ tác phẩm đó. Một tập hợp tài liệu cũng có thể chứa trong nó một câu chuyện. Có thể là do cấu trúc sách lộn xộn, các phần trong sách không được liên kết với nhau, một số phần không hợp lý, hoặc tác giả đã phóng đại quá nhiều khi sử dụng những từ ngữ thậm xưng, gây ra hàng loạt tình tiết khó hiểu.
Người phương Đông có câu: Thư trung hữu ngọc, tức là Trong sách có ngọc. Nếu sự hứng thú của bạn đối với cuốn sách mang tính thực tế, bạn sẽ muốn giải quyết vấn đề về phương pháp học đọc. Tất nhiên, thơ luôn có vài tính chất như vậy và các nhà thơ đều nhận ra điều đó.
Trong bất cứ trường hợp nào, tốc độ đọc nhanh hay chậm chỉ là một phần nhỏ đối với hầu hết mọi người khi đọc sách. Minh họa trên là điển hình cho quá trình tiếp nhận ý nghĩa của độc giả. Cho dù có khó đến đâu, mọi cuốn sách đều có những khe hở để chúng ta có thể và rất nên đọc nhanh.
Lý tưởng này đòi hỏi sự nỗ lực làm việc thật cẩn trọng để cân bằng các câu hỏi đối nghịch nhau, loại ra những lời bình mang thành kiến, kiểm tra xem có xu hướng nào quá nhấn mạnh hoặc quá coi nhẹ không. Ngôn ngữ thể hiện các thuật ngữ, định lý và phương trình toán học thường không hàm chứa ý nghĩa về cảm xúc. Những gì ông đã gắng sức cơ bản là khoác lên triết học bộ áo quần của toán học, đem lại cho nó sự chắc chắn và cấu trúc chính thống như Euclid đã làm với hình học trước đó 2.